Đặt vé tại Sài Gòn 0934 476 522
Đặt vé tại Hà Nội 0903.295392
Liên hệ đặt vé toàn quốc 0979 765 119

Thăm các làng nghề truyền thống ở Nghệ An

Làng nghề Noọng Dẻ

 

Bản Noọng Dẻ, xã Nậm Cắn (Kỳ Sơn) nằm cách Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn khoảng 10 km, về phía Đông và cách Thị trấn Mường Xén chừng 10 km về phía Tây. Nép mình bên Quốc lộ 7A và nằm lưng chừng giữa đại ngàn Trường Sơn, Noọng Dẻ để lại ấn tượng cho những ai từng có dịp qua đây bởi những nếp nhà sàn thấp thoáng sườn non, và sắc màu thổ cẩm.
 
Bản là nơi quy tụ của 113 gia đình dân tộc Thái. Bao đời nay, người dân Noọng Dẻ sống dựa vào núi rừng, chủ yếu bằng nghề phát nương làm rẫy. Chị em phụ nữ còn có thêm nghề dệt thổ cẩm, một nghề truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Thái.
 
 
Nghề dệt thổ cẩm có lúc tưởng chừng như đứng trước nguy cơ mai một bởi sự xâm chiếm thị phần của các sản phẩm dệt công nghiệp, nhưng người dân Noọng Dẻ quyết tâm giữ lấy nghề tổ tiên để lại, lớp trước truyền nghề cho lớp sau, không ai nỡ vứt bỏ khung cửi khỏi hiên nhà. Mấy năm gần đây, một số mặt hàng dệt thổ cẩm có xu hướng trở lại khẳng định vị trí của mình, đặc biệt là đối với chị em phụ nữ miền núi, vùng cao
 
 
Làng nghề tương Nam Đàn
 
 
Nghề làm tương ở Nam Đàn đã có từ rất lâu, ban đầu chỉ một số hộ làm nhưng đến nay, gia đình nào cũng biết làm tương. Với nguồn nguyên liệu dồi dào, nhân công dày dặn kinh nghiệm, hiện nay, làm tương là một trong những nghề mang lại thu nhập cao, giải quyết việc làm cho nhiều lao động nông thôn, sản phẩm đã khẳng định được uy tín trên thị trường cả nước. Thăm nhà kho của những hộ làm tương chuyên nghiệp, chúng tôi tận mắt chứng kiến được mô hình làm tương không đơn giản. Người Nam Đàn làm tương cầu kỳ ngay từ khâu chọn nguyên liệu, những chai tương được làm ra là cả một quá trình kết tinh nhiều yếu tố. Phải chăng vì thế mà đến tận bây giờ, nó vẫn còn ngọt lịm trong ký ức của những người con xa quê hay những người đã có dịp ghé qua đây.
 
 
Làng nghề dệt thổ cẩm ở Quỳ Châu
 
 
 
Quỳ Châu - vùng đất của những ché rượu cần cùng những cô gái Thái xinh đẹp trong điệu múa xòe của vùng sơn cước…là mảnh đất của nghề dệt thổ cẩm nổi tiếng mà ở đó bạn không khó nhận ra màu xanh của cây rừng, màu hồng, màu đỏ của những cánh hoa rừng, màu vàng rực rỡ của ánh nắng mặt trời… trên từng khuông vải. Và ở đó, bạn cũng sẽ nhận ra tình yêu và niềm đam mê nghề như một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Thái Việt Nam.
 
Nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Quỳ Châu đã có từ rất lâu đời. Trước đây, sản phẩm thổ cẩm được làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái về nhà chồng. Đã là cô gái Thái thì ai cũng phải biết dệt thổ cẩm và thêu thùa, họ thường tự tay làm những bộ chăn, đệm, những chiếc khăn Piêu… và thổ cẩm đã trở nên một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của họ.
 
 
Làng nghề gốm cổ Trù Sơn
 
 
Trù Sơn nằm trên diện tích 2089 ha, có 2150 hộ dân, 9648 khẩu và được chia làm 16 xóm. Là một xã thuần nông, nên làm gốm được coi là nghề phụ, tuy nhiên có thời kỳ nó đã trở thành nghề chính đem lại thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nơi đây. Không có tài liệu nào ghi chép lại một cách chính xác gốc tích của làng nghề nhưng theo như chuyện kể của những người cao tuổi trong xã thì nghề làm nồi đất ở đây xuất hiện từ thời nhà Trần, do một công chúa con vua Trần truyền dạy khi người dân vào đây khai hoang lập ấp.
 
 
Gốm ở Trù Sơn có lẽ là loại gốm còn giữ được những nét cơ bản nhất của gốm cổ. Không chỉ vì nó được làm thủ công mà ở đây trong từng khâu, từng công đoạn đều đơn giản, không cầu kỳ, sặc sỡ, tuy nhẹ, mỏng, nhưng khá cứng. Để có được loại đất ưng ý để về làm gốm, người Trù Sơn phải xuống Nghi Văn (Nghi Lộc) và lên tận Sơn Thành (Yên Thành), những nơi đó mới có loại đất sét có màu đỏ, dẻo và đẹp, thích hợp cho việc làm gốm.
Vì là nghề phụ nên gốm ở đây cũng được làm theo mùa. Hàng năm, cứ sau mùa gặt hái là người dân lại xắn tay lên làm gốm. Cũng có những hộ làm quanh năm, nhưng số lượng là không nhiều. Trung bình mỗi năm ở đây cũng chỉ có 5 tháng làm nghề.
 
Từ giữa những năm thập niên 90 của thế kỷ XX trở về trước, hầu hết trong xã, hộ nào cũng làm nồi đất. Thế nhưng càng về sau số hộ còn theo nghề cứ rơi rụng dần, đến nay chỉ còn khoảng 300 hộ làm. Chị Kháng còn cho biết, trước đây trẻ con cứ 7 đến 8 tuổi đã biết làm nồi, vì cũng khá đơn giản nên chỉ cần nhìn người lớn làm là có thể làm theo, lâu dần thành quen. Người thạo nghề, một buổi cũng làm được khoảng 20 chiếc. Bây giờ, chỉ còn chị em phụ nữ tranh thủ lúc nông nhàn làm nghề, cũng là để có thêm thu nhập, nhưng quan trọng nhất vẫn là để cái nghề truyền thống của cha ông không bị mai một đi.
 
 
Làng nghề đóng thuyền Trung Kiên (Nghi Lộc)
 
 
 
Trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, sống trên đất nước có biển rộng, nhiều sông ngòi, nhân dân ta đã có truyền thống lâu đời trong việc chế tạo và sử dụng tàu thuyền. Hình ảnh con thuyền đã phổ biến trên trống đồng Việt cổ. Thuyền ở nước ta có nhiều loại: thuyền vận tải, thuyền chiến, thuyền đi biển, thuyền đánh cá… phù hợp với từng mục đích sử dụng, từng thời kỳ lịch sử. Thuyền được đúc từ thân cây (độc mộc), đóng bằng gỗ, đan bằng tre, làm bằng kim loại, đúc xi măng lưới thép… tuỳ vào điều kiện vật liệu của mỗi địa phương. Nghệ An là nơi có truyền thống đóng thuyền từ rất sớm
 
 
Nghệ An có địa hình núi non trập trùng, nhiều sông suối, lại có nhiều cửa biển rất thuận tiện cho giao thông đường thuỷ và đánh bắt hải sản bằng tàu thuyền. Bờ biển Nghệ An dài 82km, có 6 cửa lạch: Cửa Hội, Cửa Lò, Cửa Vạn, Cửa Thơi, Cửa Quèn, Cửa Cờn rải đều có 4 huyện, thị xã làm nghề cá là Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò. Đặc biệt là Cửa Hội và Cửa Lò tàu 1.000 tấn có thể vào ra dễ dàng và lập được bến cảng khá lớn. Rừng Nghệ An lại cung cấp nhiều loại gỗ quý để đóng tàu thuyền. Bởi vậy nghề đóng tàu thuyền ở Nghệ An ra đời từ rất sớm, có nhiều điều kiện để phát triển và đạt tới kỹ nghệ cao. Thời Nguyễn, Nghệ An có tới 25 xưởng đóng tàu thuyền lớn nhất, nhì ở nước ta
 
Nghề đóng thuyền ở Trung Kiên có cách đây hơn 700 năm, nhưng trở thành phường - làng đóng thuyền nổi tiếng phải kể từ thời Lê (hơn 500 năm). Vua Lê Thánh Tông đã cho lập hạm đội hải binh lớn nhất nước tại Cửa Lò, làm căn cứ để bảo vệ biên giới phía Nam và xuất quân đi bình định phương Nam. Thái Uý, Nhập nội, Phò mã Nguyễn Sư Hồi, con trai đầu của Cương quốc công Nguyễn Xí được cử chỉ huy hạm đội cùng với chức vụ trấn thủ thập nhị hải môn (trấn vùng 12 cửa biển nước ta). Tàu thuyền và quân đội đóng dọc theo sông Cấm, mà ngày nay các nơi liên quan còn được gọi là sông Cấm, núi Cấm, cầu Cấm. Làng Hoàng Lao nằm trong vùng căn cứ này, nên người thợ được trưng dụng để đóng và sửa chữa tàu thuyền cho quân đội. Đồng thời với thợ Hoàng Lao là nhiều tốp thợ ở các nơi khác từ ngoài Bắc được trưng dụng vào, đã tạo điều kiện cho thợ Hoàng Lao học hỏi thêm kinh nghiệm và nâng cao tay nghề của mình. Từ những người thợ nổi tiếng của Hoàng Lao đã xuất hiện một tài hoa, có công lớn với vua Lê và được dân thợ tôn thờ thành ông tổ nghề đóng tàu thuyền của làng Trung Kiên đó là ông Nguyễn Quý Công.
 
Ngày nay, để thích hợp với cơ chế, nghề đóng thuyền đã từng bước lập ra các tổ hợp đóng thuyền, hiện có khoảng 13 tổ hợp như vậy ở Trung Kiên góp phần lưu giữ nghề truyền thống và tạo ra những sản phẩm tốt cho thị trường ngày nay.
 
 
Ngoài ra còn những làng nghề khác như nghề làm hàng xáo Đông Kỷ, nghề đan lát ở Bột Đà, nghề nước mắm ở Vạn Phần,.... Những làng nghề đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục hoạt động, sản xuất ra những sản phẩm riêng biệt, tiêu biểu, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc và tạo nguồn thu cho nhân dân xứ Nghệ. 
 
Hiện, vé máy bay đi Nghệ An có bán tại phòng vé chúng tôi, hoặc bạn có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi qua địa chỉ phòng vé

 

 

 

Ngày đăng: 08/09/2014
Lượt xem: 0
Top

Hỗ trợ trực tuyến

Liên hệ:

Mr Dung
0979765119



Danh mục bài viết

Quý khách có thể trực tiếp liên lạc tại phòng vé